Nguồn gốc ngôn ngữ học xã hội Công khai thiên hướng tình dục

Cách diễn đạt ngày nay "công khai tính dục" được biết là có nguồn gốc từ đầu thế kỷ 20 từ phép loại suy ví bước đầu làm quen văn hóa nhóm đồng tính của người đồng tính với một bữa tiệc trưởng thành của cô gái mới lớn. Đây là một lễ kỷ niệm dành cho phụ nữ trẻ thuộc tầng lớp thượng lưu chuẩn bị cho màn début - sự ra mắt chính thức của cô ấy với xã hội - vì cô ấy đã đến tuổi trưởng thành hoặc đủ điều kiện để kết hôn. Như nhà sử học George Chauncey chỉ ra:

Người đồng tính trong những năm trước chiến tranh [trước-Chiến tranh thế giới thứ nhất]... không nói đến việc bước ra khỏi cái chúng ta gọi là gay closet mà là công khai bước vào cái họ gọi là xã hội đồng tính hoặc thế giới đồng tính, một thế giới không quá nhỏ, không quá cô lập, cũng không ... quá ẩn như ngụ ý của từ closet (tủ).[12]

Trên thực tế, như Elizabeth Kennedy nhận xét, “sử dụng cụ từ ‘closet’ để ám chỉ” những thời điểm trước đó như “những năm 1920 và 1930 có thể lỗi thời”.[13]

Một bài báo về việc công khai[14] trên trang bách khoa toàn thư trực tuyến glbtq.com nói rằng những quan sát của nhà tính dục học Evelyn Hooker đã giới thiệu cách sử dụng từ “coming out” với cộng đồng học thuật vào những năm 1950. Bài báo tiếp tục lặp lại quan sát của Chauncey rằng sự thay đổi ý nghĩa từ ngữ tiếp tục xảy ra sau đó. Trước những năm 1950, người ta tập trung vào lối vào “một thế giới của hi vọng và tính đoàn kết cộng đồng”; trong khi định nghĩa sau cuộc bạo loạn Stonewall là lối thoát khỏi sự áp bức của tủ (closet).[14] Sự thay đổi trọng tâm này đưa ra giả thuyết rằng coming out of the closet là một phép ẩn dụ hỗn hợp kết hợp “coming out” với phép ẩn dụ tủ (closet): một sự phát triển của skeleton in the closet (một sự thật tai tiếng hoặc đáng xấu hổ mà ai đó muốn giữ bí mật) đặc biệt ám chỉ sống một cuộc sống phủ nhận và bí mật bằng cách che giấu xu hướng tính dục. Nói cách khác, phép ẩn dụ tủ (closet) dùng để mở rộng về sức mạnh và áp lực của xã hội dị tính luyến ái và thể chế của nó.